TRƯƠNG MINH GIẢNG – DANH THẦN TOÀN TÀI
Trên đất nước hình chữ S nghìn năm văn hiến, chúng ta đều có thể thấy được vết tích của chiến tranh ở bất cứ nơi đâu. Khi Vua Gia Long lên ngôi và thống nhất được đất nước, tưởng chừng thiên hạ sẽ thái bình. Tuy nhiên, họa ngoại xâm và nội phản vẫn luôn lăm le thử thách bất cứ triều đại nào trong lịch sử. Vào giữa thế kỷ 19, vùng đất Nam Bộ vừa được yên ổn lại một lần nữa trở thành chiến trường chính giữa hai phe đối đầu nhau là Triều đình Huế và quân ngoại xâm – nội phản. Và trong thời khắc khó khăn, nhân dân lại được chứng kiến sự trổ tài của một cá nhân kiệt xuất, đó là Trương Minh Giảng – một danh thần toàn tài. Trương Minh Giảng (1792 – 1841), là Tổng đốc thứ hai của Tỉnh An – Hà dưới thời nhà Nguyễn. Ông là con của Lễ bộ Thượng thư Thành Tín Hầu Trương Minh Thành, mẹ là bà Nguyễn Thị Điền, quê làng Hanh Thông, tổng Bình Dương, dinh Phiên Trấn (nay thuộc phường 7, quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh). Vừa là võ tướng vừa là sử gia, từng giữ chức Tổng tài Quốc sử quán. Ông đỗ cử nhân năm 1819 và chỉ hơn 10 năm sau đã thăng tiến đến chức Thượng thư Bộ Hộ. Sự thăng trầm là những gì có thể nói về cuộc đời của ông.
1. LĨNH BINH DẸP LOẠN LÊ VĂN KHÔI VÀ ĐEM QUÂN CHỐNG XIÊM LA
Tháng 6/1833, Lê Văn Khôi nổi loạn, giết Bố chính Bạch Xuân Nguyên và Tổng đốc Nguyễn Văn Quế, chiếm lấy thành Gia Định rồi mở rộng chiếm nốt các tỉnh Nam Kỳ. Vua Minh Mạng cử Thượng thư Trương Minh Giảng cùng với Thảo nghịch Tướng quân là Phan Văn Thúy đem binh vào đánh dẹp. Tháng 7- 1833, quân triều đình thắng trận ở trạm Biên Long và lấy lại tỉnh Biên Hòa, ông được khen thưởng.Tháng 8-1833, Trương Minh Giảng được cải bổ làm Thượng thư bộ Binh, lãnh chức Tổng đốc An – Hà kiêm Bảo hộ Chân Lạp quốc thay Lê Đại Cương vừa bị cách chức do để mất thành An Giang. Bắt đầu từ đây, sự nghiệp của Trương Minh Giảng luôn gắn bó với vùng đất An Giang.Khi về làm Tổng đốc An – Hà, Trương Minh Giảng đã góp phần thu hồi 6 tỉnh Nam kỳ, Lê Văn Khôi yếu thế rút vào thành Gia Định cố thủ và cầu viện Xiêm, nhân cơ hội đó quân Xiêm huy động 5 đạo binh tấn công nước ta. Đối với vùng đất Nam kỳ, từ tháng 11- 1833, quân Xiêm chia làm hai đạo tấn công Chân Lạp và Nam kỳ: đạo thứ nhất do Phi Nhã Chất Tri (Chao Phraya Bodin Decha) chỉ huy, dẫn 4 vạn quân theo đường bộ vào Chân Lạp đánh chiếm Nam Vang, đi dọc sông Mékong xuống Châu Đốc, vua Nặc Chân bỏ thành Nam Vang chạy xuống An Giang rồi rồi sau đó xuống Vĩnh Long ẩn náu; đạo quân thứ hai do Phi Nhã Phật Lăng (PhraKlang) dẫn 1 vạn quân tiến công bằng đường biển đánh chiếm Hà Tiên. Với lực lượng vượt trội, quân Xiêm chiếm Hà Tiên rồi Châu Đốc rất nhanh chóng.Tháng 12 – 1833, Tổng đốc An – Hà Trương Minh Giảng cùng Tán lý Nguyễn Xuân đánh thắng quân Xiêm trận đầu ở Thuận Cảng (Vàm Nao – An Giang), tiêu diệt một phần sinh lực địch. Tin thắng trận tâu lên, vua Minh Mạng cả mừng, ông được tấn phong tước Bình Thành nam.Tuy thua trận, quân Xiêm vẫn còn mạnh, chúng xua quân và hơn 100 chiến thuyền xuôi dòng hướng xuống Sa Đéc, Vĩnh Long. Được Thái Công Triều tham mưu, Tổng đốc Trương Minh Giảng và Tham tán Nguyễn Xuân bố trí chốt chặn ở đoạn vàm sông Cổ Hủ, chợ Thủ – đối diện Cù lao Giêng. Trận đánh diễn ác liệt, cuối cùng quân triều đình thắng lợi (tháng 1-1834). Bị thua nặng, quân Xiêm rút về Châu Đốc, quân nhà Nguyễn truy kích dữ dội, chúng bỏ Châu Đốc rồi Hà Tiên. Thừa thắng, ông cùng tướng quân Trần Văn Năng tiến quân lấy lại thành Nam Vang, đuổi quân Xiêm về phía Tây Chân Lạp.Do chiến tích lớn lao đã chiếm lại thành An Giang, Hà Tiên, Nam Vang và tiêu diệt một lực lượng lớn sinh lực quân Xiêm, đập tan ý đồ xâm lược của chúng, Tổng đốc Trương Minh Giảng được vua Minh Mạng gia phong tước Bình Thành tử, vẫn lĩnh Tổng đốc An Hà (tháng 3 – 1834).Tháng 1 – 1835, Trương Minh Giảng được thăng tước Bình Thành bá, thăng thự Đông các Đại học sĩ, vẫn lĩnh Tổng đốc An – Hà kiêm giữ ấn Bảo hộ Chân Lạp.
2. THU PHỤC VÀ CAI QUẢN CAO MIÊN
Sau khi vua Chân Lạp mất do không có con trai nối ngôi, trong dòng tộc nhiều người muốn tranh giành ngôi vua, nhân cơ hội ấy vua Minh Mạng quyết định nhập Chân Lạp vào Việt Nam và đổi ra Trấn Tây thành. Trương Minh Giảng sung Trấn Tây tướng quân kiêm Tổng đốc An Hà, còn Tuần phủ An Giang Lê Đại Cương sung Trấn Tây tham tán đại thần.Trong thời gian làm Trấn Tây tướng quân, kiêm Tổng đốc An – Hà, Trương Minh Giảng gặp phải sự nhiều phản kháng từ người Chân Lạp. Cuộc nổi loạn của bọn Đô Y ở Hải Đông và Mịch Sô ở Khai Biên tháng 2 – 1838, Bên cạnh đó, Xiêm cho tướng quân là Chất Tri (Chao Phraya Bodin Decha) chiếm đóng các vùng phía Tây Chân Lạp để tranh giành ảnh hưởng. Các anh em của vua Ang Chan là Ang Em, Ang Duong được Xiêm hỗ trợ, liên tục tấn công quân Đại Nam đóng ở Trấn Tây. Năm 1840, Sa Mộc ở Hải Tây, phụ nữ Xà Năng và Bồn Tốt cùng thổ binh trốn đi, nhân dân Chân Lạp được sự hậu thuẫn của quân Xiêm làm loạn nổi lên khắp nơi.Theo lệnh của Minh Mạng, từ năm 1838 đến năm 1840, Trương Minh Giảng đã huy động một đội quân lớn đến dẹp loạn ở Trấn Tây Thành, kết quả khả quan ông bắt sống nhiều giặc, thổ dân theo về rất nhiều. Đến khi dựng bia võ công (11 – 1838), vua lấy Trương Minh Giảng đứng công đầu, khắc tên vào bia đá, đặt ở Võ miếu. Sau khi vua Minh Mạng chết (12 – 1840), Thiệu Trị lên ngôi. Vua Thiệu Trị vốn là người không tham vọng, nhiều lần nghị bàn về tình hình khó khăn của quan quân vất vả trong việc phòng thủ Trấn Tây thành. Sách Đại Nam Thực Lục có đoạn ghi rằng:
“ […] Vua cho rằng từ khi Trấn Tây có việc binh đao đến giờ, sáu tỉnh Nam Kỳ, binh và dân đều nhọc mệt, triều đình cũng khó nhọc tổn phí không biết đâu mà kể, ý đã chán việc binh đao, vả lại sang năm sau có việc tuần du ra Bắc, hãy tạm xếp việc Trấn Tây lại không nghĩ đến, cũng chẳng hại gì, mới dụ rằng: “Sự thế hiện nay buộc phải như thế, chuẩn cho theo lời bàn mà làm. Các viên từ Kinh lược, Tướng quân cho đến Tán lý và Hiệp lý không làm được công trạng gì, đều giao cho bộ Hình nghiêm ngặt nghị tội từng viên có khác nhau”
Sau khi nghị bàn, vua Thiệu Trị cho lệnh quan quân rút về nước. Tháng 9 – 1841, quân Đại Nam rút quân về đến An Giang. Vốn là người chỉ huy cao nhất của Đại Nam ở Trấn Tây, nay lại phải theo lệnh rút binh, khó tránh Trương Minh Giảng cảm thấy xấu hổ. Chưa hết, triều đình còn cho rằng ông không làm tròn bổn phận, không dẹp yên nổi loạn, hao tốn tiền bạc. Trương Minh Giảng do uất ức, phát bệnh mà chết tại thành An Giang vào ngày 27 tháng 9 năm 1841. Triều đình miễn nghị tội, giữ lại hàm Tướng quân, hàm Hiệp biện, cấp cho tiền tuất, nhưng tước cả lương bổng thất phẩm của con ông là Trương Minh Thi. Sách Đại Nam Thực Lục có đoạn ghi:
“ […]Vua nghe tin Giảng chết, phán rằng: “Giảng đảm đương sự ký thác nặng nề, chỉ vì việc trị dân và chống giặc không đúng phương pháp, cho nên thổ dân cùng nổi lên làm loạn, để triều đình phải bận đến việc phái quân đi tiễu bắt, đã lâu ngày mà chưa xong việc. Đã giao cho bộ nghiêm ngặt nghị tội. Không ngờ đại binh vừa mới về đến nơi, đã ốm chết rồi. Ta nghĩ: Giảng năm trước đây, làm Tham tán quân vụ, khiến giặc ở Biên Hoà và Vĩnh Long sợ mất vía, lại đánh được quân Xiêm ở Thuận Cảng. Công trạng rõ rệt, khắc vào bia đá cũng không thể mất được. Chuẩn cho truy đoạt lại chức Trấn Tây Tướng quân, để cho rõ tội, nhưng gia ơn cho chiếu theo phẩm hàm Đại học sĩ mà cấp cho tiền tuất; lại thưởng cho 5 cây gấm Trung Quốc, 5 cây sa các màu, 20 tấm lụa, 30 tấm vải và 1 000 quan tiền, tha cho không phải truy nghị tội nữa. Lại thu lại lương bổng hàm thất phẩm chi cho con trai là Trương Minh Thi khi trước.”
Đời Tự Đức thứ 11 (1857), Trương Minh Giảng được thờ ở đền Hiền Lương. Mộ phần của Tướng quân Trương Minh Giảng tọa lạc số 82/5 đường Lý Thường Kiệt, phường 7, quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, ngôi mộ đang trong tình trạng hoang tàn và bị chiếm dụng.Trương Minh Giảng vị Tổng đốc đa tài, ngoài chỉ huy quân đội, ông đã thể hiện khả năng quản lý giỏi. Cụ thể, sau khi ổn định tình hình Trấn Tây, Trương Minh Giảng đã chỉ huy xây lại thành An Giang và Hà Tiên năm 1834, ổn định cuộc sống nhân dân. Tham gia đo đạc địa bạ 6 tỉnh Nam Kỳ, thúc đẩy phát triển nông nghiệp, thương mại biên giới.Sự đóng góp của Tổng đốc Trương Minh Giảng đối với tỉnh An Giang và Nam Bộ từ năm 1833-1841 là rất lớn trên các lĩnh vực, góp phần ổn định chính trị nội địa và bảo vệ độc lập cho nước Chân Lạp, xóa tan sự xâm lược của Xiêm La. Công sức đóng góp của ông đã được Quốc sử quán nhà Nguyễn ghi nhận.
Nguồn:
1.Hội Khoa học Lịch sử An Giang, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Tổng đốc Trương Minh Giảng với An Giang, tháng 11-2017.
2.Quốc triều chính biên toát yếu, NXB Thuận Hóa – 1998.
3.Đại Nam chính biên liệt truyện, NXB Văn Học – 2004.
4.Đại Nam thực lục chính biên, nhiều tập, NXB KHXH, Hà Nội 1964-1974.
5.Minh Mạng chính yếu, NXB Thuận Hóa – 2010.
6.Đại Nam nhất thống chí, NXB Thuận Hóa- 1992.