Nùng Trí Cao hay Nông Trí Cao (chữ Hán: 儂智高 Tráng văn: Nungz Cigaoh; 1025 – 1055) là một lãnh tụ người Tày, Nùng, Tráng nổi lên đòi tự trị giữa Đại Tống và Đại Cồ Việt thời nhà Lý.
Sau khi nhà Tống thống nhất Trung Quốc, đối với các sắc tộc mà Hán tộc coi họ là man di, nhà Tống đặt ra một hệ thống hành chính mới cho các sắc tộc này, đó là hệ thống “ki mi” gọi là “ki mi chế” (jimi zhi, 羁縻制), có nghĩa là các sắc tộc hay các bộ lạc tự quản trị địa phương của mình, tuy nhiên thuế khoá hay nhân lực vẫn được kiểm soát bởi chính quyền trung ương. Các vùng đất của các bộ tộc này sinh sống được gọi là các “châu ki mi”. Các bộ tộc người Tày, Nùng, Tráng có được một quy chế bớt bị đàn áp hơn so với thời nhà Đường, nên một số lớn đã hợp tác với chính quyền nhà Tống, cho đến khi có sự nổi dậy của Nùng Trí Cao, với hy vọng là các tộc Tày, Nùng, Tráng sẽ giành được sự độc lập như các tộc khác đã làm.
Năm 1052, Nùng Trí Cao tự xưng là Nhân Huệ Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Nam. Để tăng thêm thanh thế, ông xin phụ thuộc vào nhà Tống, Hoàng đế Nhân Tông nhà Tống không cho. Để đạt mộng ước dựng một vương quốc tự trị cho tộc người Tày, Nùng,Tráng, Trí Cao bèn đem quân sang đánh Tống. Được sự hậu thuẫn của các thủ lĩnh người Tày-Thái ở Quảng Tây là Nùng Trí Trung, Nùng Kiến Hậu, thanh thế Trí Cao càng thêm lớn mạnh. Ông đánh lấy Ung Châu, rồi sau đó chiếm cả thảy được 9 châu ở đất Quảng Đông và Quảng Tây, bao gồm: Hoành (Heng 横), Quý (Gui 贵), Tầm (Xun 浔), Củng (Gong 龚), Đằng (Teng 藤), Ngô (Wu 梧), Phong (Feng 封), Khang (Kang 康), Đoan (Duan 端).
Quân của Nùng Trí Cao tiến đến Quảng Châu (Guangzhou 廣州), bao vây và tấn công thành này. Tuy nhiên, sau 57 ngày công kích không thành công, Trí Cao triệt thoái, mang quân tiến về phía bắc, ngược dòng Bắc Giang (Beijiang北江), đánh và hạ các thành Thanh Viễn (Qingyuan 清远), Anh Châu (Yingzhou 英州), Thiều Châu (Shaozhou 韶州). Sau đó, Trí Cao tiến quân về phía tây đánh chiếm Liên Châu (Lianzhou 連州), Hạ Châu (Hezhou 賀州), Thiệu Châu (Zhaozhou 昭州) rồi đổi hướng, tiến quân lên phía bắc đánh Cung Châu (Gongzhou 恭州) và Toàn Châu (Quanzhou 全州) là thị trấn phía nam Việt Thành lĩnh, một trong năm rặng núi của Ngũ Lĩnh (rặng núi Nam Lĩnh ngày nay). Không vượt núi, Trí Cao đổi hướng tiến về phía tây nam đánh Hưng An (Xingan 兴安), Quế Châu (Guizhou 桂州), Liễu Châu (Liuzhou 柳州), Tấn Châu (Binzhou宾州) và chiếm lại Ung Châu (đã bị nhà Tống chiếm lại tháng 10 năm 1052). Tại đây, Trí Cao chuẩn bị thuyền bè với ý định đánh chiếm Quảng Châu một lần nữa, để dựng kinh đô nước Đại Nam của người Tày, Nùng, Tráng.
Nhà Tống sai quân đến tấn công, nhưng đều bị Trí Cao đánh bại. Cuối cùng, vua Tống phải cử Địch Thanh là một đại tướng có tài, nhiều kinh nghiệm hành quân với 25 lần lâm trận – đã từng chiến thắng quân Tây Hạ. Sau nhiều gian truân cuối cùng Địch Thanh cũng đánh bại được Trí Cao. Sau Trí Cao chạy sang nước Đại Lý bị người Đại Lý giết đem đầu nộp cho nhà Tống. Nhà Tống giết luôn gia quyến của Trí Cao.
Mặc dù sự quật khởi của Nùng Trí Cao – dựng một vương quốc độc lập cho dân tộc Tày, Nùng, Tráng – đã không thành công, nhưng người Tày, Nùng, Tráng đã tôn ông như một nhân vật cực kỳ anh hùng, gọi ông là “Vua Nùng” (Vua Nông) và dựng miếu thờ. Ngày 3 tháng 3 hàng năm – kỷ niệm về Nùng Trí Cao – là ngày hội chính của dân tộc Tày, Nùng, Tráng. Hiện nay còn di tích thành Nà Lữ, nơi ông đóng quân, ở gần thị xã Cao Bằng.