Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, cụm từ “học tập cải tạo” nói đến các trại cải tạo do chính quyền Việt Nam dựng lên để giam giữ gần 300,000 các cựu binh lính chế độ Việt Nam Cộng hòa, những công chức, người phục vụ cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa trước 1975. Hệ thống giam giữ tù binh này lấy mẫu từ trại cải tạo lao động của Liên Xô. Hàng nghìn tù nhân đã bị tra tấn và ngược đãi. Thời gian đi “học tập cải tạo” có thể kéo dài từ vài tuần đến 18 năm.
Tháng 6 năm 1976, Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam, trước khi sát nhập với chính phủ mới, đã ra thông báo rằng những người trong các trại tập trung có thể sẽ được phóng thích sau 3 năm. Thực tế diễn ra không đúng như vậy. Không có một tiêu chuẩn rõ ràng nào về thời điểm những người bị giam giữ được phóng thích. Những người tù được phóng thích được đặt dưới sự giám sát và thời gian thử thách từ 6 tháng đến 1 năm. Trong thời gian đó họ không được cấp giấy tờ chứng minh nhân thân, không có giấy thông hành, không có khẩu phần lương thực thực phẩm của nhà nước, và không có quyền cho con em đi học. Nếu trong giai đoạn thử thách đó họ không đáp ứng được yêu cầu thì sẽ có thể bị gửi trở lại các trại cải tạo. Đối mặt với nhiều khó khăn, nhiều người đã chọn con đường ra đi vượt biên bằng đường biển và trở thành thuyền nhân.
Chính phủ Mỹ coi các trại học tập cải tạo này là nơi giam giữ tù nhân chính trị. Vào năm 1989, chính phủ Reagan đã kí kết thỏa thuận với chính quyền Việt Nam để phóng thích những người này ra khỏi các trại cải tạo.