Trong cuộc phỏng vấn tạp chí George năm 1998, chính tướng William Childs Westmoreland – Tư lệnh Bộ chỉ huy cố vấn quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam- về tướng Võ Nguyên Giáp của quân đội cộng sản như sau: “Of course, he was a formidable adversary…. By his own admission, by early 1969, I think, he had lost, what, a half million soldiers? He reported this. Now such a disregard for human life may make a formidable adversary, but it does not make a military genius. An American commander losing men like that would hardly have lasted more than a few weeks”. Xin được tạm dịch là: “Dĩ nhiên, ông ta là một đối thủ ghê gớm…. Với sự thừa nhận của chính ông ta, đến đầu năm 1969, tôi nghĩ, ông ta đã mất nửa triệu lính? Ông ta đã báo cáo điều này. Hiện tại, một sự coi thường mạng người như thế có lẽ sẽ tạo nên một đối thủ ghê gớm, nhưng nó không tạo nên một thiên tài quân sự. Với một người chỉ huy người Mỹ mà làm thiệt mạng nhiều binh sĩ thì vị chỉ huy đó sẽ bị cách chức sau vài tuần lễ”.
Một cuộc chiến tranh phi nghĩa với danh xưng giải phóng và thống nhất bằng vũ lực quân sự mà ở đó, các lãnh đạo Hà Nội không coi cuộc sống của dân lành, của thanh niên là gì. Các lãnh đạo cộng sản coi thường sinh mạng của mình để đổi lấy sự vinh quang cho riêng lãnh đạo. Các bà mẹ miền Bắc chỉ biết đến “Các con không về mình mẹ lặng yên” (trích “Đất nước” – Nhạc: Phạm Minh Tuấn – Thơ: Tạ Hữu Yên). Trong khi đó, các con của các mẹ đã bị đẩy vào chiến trường cho cái gọi là sinh bắc tử nam. Một sự xót xa đọa đầy cho người miền bắc.
Những nỗi xót xa và đắng cay của những số phận nghiệt ngã đi tìm cái chết để đem lại giàu sang tột cùng cho con cháu Hồ, Giáp, Duẩn, Chinh, Đồng vv…đã được nhà văn cộng sản hồi chánh Xuân Vũ mô tả chính xác “mạng người lá rụng”. Những đứa con của các bà mẹ Miền Bắc như thể những chiếc lá trên rừng Trường Sơn rơi vào quên lãng, rơi vào mục nát, rơi vào quên lãng để cho bác và đảng vinh quang trong chiến thắng ồn ào…
Nhưng ngày 30/4 lại còn đem đến những nỗi xót xa hơn cho cả Miền Nam và chung quy là cho cả dân tộc trừ 10% bọn cộng sản, nằm vùng và mafia đỏ. Nhà báo James Taranto đã trích dẫn cuộc điều tra quy mô của nhật báo Orange County Register được phổ biến trong năm 2001 về “học tập cải tạo” tại Việt Nam và đã kết luận rằng: “Ngay sau khi xâm chiếm VNCH, cộng sản đã đưa một triệu quân dân cán chính VNCH vào tù vô thời hạn – dưới cái nguỵ danh học tập cải tạo – trong ít nhất là 150 trại tù được thiết lập trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam kể cả những nơi rừng thiêng nước độc với khí hậu khắc nghiệt. Theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, đại đa số những người này đã bị giam cầm từ 3 tới 10 năm và có một số người đã bị giam giữ tới 17 năm. Nếu lấy con số trung bình là bẩy năm tù cho mỗi người, số năm tù của một triệu người là 7,000,000 năm… Cứ mỗi ba gia đình tại Miền Nam, có một gia đình có người phải đi tù cải tạo. Và trong số một triệu người tù kể trên, đã có 165,000 người chết vì bị hành hạ, tra tấn, đánh đập, bỏ đói, lao động kiệt sức, chết vì bệnh không được chữa trị, bị hành quyết… Cho tới nay, hài cốt của 165,000 nạn nhân này vẫn còn bị Việt Cộng chôn giấu trong rừng núi, không trả lại cho gia đình họ. Hiện nay chỉ có Việt Cộng mới biết rõ tên tuổi các nạn nhân cùng nơi chôn giấu hài cốt của họ. Đây là tội ác thủ tiêu mất tích người, một tội ác chống loài người đã và đang diễn ra tại Việt Nam suốt 35 năm nay mà thủ phạm là Lê Duẩn…”.
Còn theo tài liệu của Viện Bảo Tàng Việt Nam tại San Jose ghi nhận số lượng tù cải tạo thực sự đều là tù chính trị như sau: “Năm 1975 QLVNCH có 980.000 quân nhân gồm 1/10 cấp Tá và cấp Tướng tổng cộng 9.600, cấp úy là 80.000, còn lại là hạ sỹ quan và binh sĩ – Cấp Tướng tại ngũ đến 30 tháng 4 năm 75 là 112; bị tù cải tạo: 32 vị, 80 tướng lãnh di tản và 1 số nhỏ không bị bắt giam. – Ðại tá có 600, bị tù 366. – Trung tá có 2.500, bị tù 1.700. – Thiếu tá có 6.500, bị tù 5.500. – Cấp úy có 80.000, bị tù 72.000. Trong số này bao gồm cả nữ quân nhân cũng như thành viên đảng phái và các cấp chính quyền. Ðây là con số ghi nhận được từ phía Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa, không có tài liệu của các trại giam phía cộng sản để đối chiếu; và không có con số chính xác tù cải tạo bị chết trong khi giam cầm”.
Hàng triệu người quân dân cán chính VNCH phải đi tù, vợ con họ bị hãm hiếp, lao động cưỡng bức, đầy đi vùng kinh tế mới. Gia sản, nhà cửa bị cướp mất để làm giàu cho quan to của đảng cộng sản hay đám sâu bọ nằm vùng trước 1975. Hàng trăm nghìn người đã bỏ mạng trên biển chỉ bởi muốn thoát khỏi nhà tù lớn, muốn có được hai chữ tự do. Cảnh tù đầy sau 1975 đã được miêu tả qua nhiều hồi ký như Tôi Phải Sống, Đại Học Máu, Đáy địa ngục, Tôi đi cải tạo vv…xin đọc một đoạn để thấy sự thật đau lòng cho người dân Miền Nam sau 30/4/1975: “Đã hơn hai tháng nay, chúng tôi không được ăn miếng thịt nào. Lao động mỗi ngày 8 tiếng, toàn việc nặng. Cơm không có, mỗi ngày lãnh hai chiếc bánh mì luộc, mỗi cái khoảng 200 gram và một nửa chiếc bánh buổi sáng 50gram, như vậy chúng tôi chỉ được ăn 450 gram chất bột với muối, không có chất béo, chất rau và chất đạm nào! Do đó, ai nấy đều gầy rộc hẳn, da khô khốc. Trên nguyên tắc theo giấy tờ chúng tôi được ăn 18 kí lô chất bột, 300 gram thịt mỗi tháng, nhưng thực tế chúng tôi chỉ được ăn 13 kí 500 chất bột”, (Đáy Địa Ngục -Tạ Tỵ trang 378- 379.).
Lý do ư? Đảng CSVN phải sắt máu để làm khiếp sợ quân dân cán chính VNCH, phải trả thù cho được những người đã bảo vệ miền nam đến cùng. Lê Duẩn đã khẳng định trong sách “Lê Duẩn, Nội dung cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, xuất bản lần 1 tại trang 482 có viết: “Sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam được tích luỹ qua gần nửa thế kỷ đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, kết tinh cả truyền thống chiến đấu và tài thao lược của tổ tiên ta. Bằng ý chí của chúng ta, những kẻ một thời lầm đường lạc lối theo Mỹ – Ngụy đã được lao động cải tạo để trở thành những công dân có ích cho xã hội mới…”. Trong khi đó Đỗ Mười thì tuyên bố trắng trợn hơn “Giải phóng rồi, nhà cửa của bọn nó là của chúng ta, vợ con của bọn chúng thì chúng ta dùng”…
Một miền nam tươi đẹp đã ra đi, một miền nam tươi đẹp đã băng hà sau ngày 30/4/1975 để đến nỗi tiêu điều, khổ cực như Huy Đức đã viết là một ví dụ dù Huy Đức chưa viết hết những sự thật kinh hoàng về những kẻ cướp ngày “Tối 10-9-1975, “tin chiến thắng” liên tục được báo về “Đại bản doanh” của Trung ương Cục đóng tại Dinh Độc Lập. Con số bị bắt cho đến khi ấy vẫn tăng lên. Các đoàn đưa ra những con số chi tiết: hàng chục triệu tiền mặt, hàng chục ký vàng, cả “kho” kim cương, hàng vạn mét vải và cả một cơ sở chăn nuôi gồm “7. 000 con gà, thu hoạch 4. 000 trứng mỗi ngày”120 ở Thủ Đức. Một nhà tư sản đang nằm viện bị yêu cầu kiểm tra xem ốm thật hay cáo bệnh, trong khi đó con trai ông ta bị bắt để buộc phải khai ra nơi cất giấu tiền, vàng. Do tin tức bị lọt ra, một số nhà tư sản đã kịp cao chạy xa bay, có người bị bắt khi đang chuẩn bị trốn.”
Thảm kịch của miền nam chưa dừng lại ở cướp ngày mà nó trực tiếp đẩy người dân vào một thảm kịch khác: trên biển đông. Tập tài liệu ấn hành vào năm 2000, mang tựa đề “The State of the World’s Refugees 2000, 50 years of Humanitarian Action”, viết về tình trạng tị nạn thế giới, để đánh dấu 50 năm hoạt động nhân đạo của Liên Hiệp Quốc, Bà Sadako Ogata, Cao Ủy Trưởng Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, đã nói về lòng can trường của hàng triệu người tị nạn và lánh nạn trên thế giới đã mất tất cả, ngoại trừ niềm hy vọng, và đã vượt qua biết bao thử thách và chông gai để đi tìm con đường sống. Bà Ogata đã tuyên dương những người này là “Những người sống sót vĩ đại của Thế Kỷ 20”. Cuốn sách cho biết: “Ngay từ cuối năm 1975, những đợt người tị nạn Việt Nam đã bắt đầu đến lánh nạn tại các nước lân bang. Vào những ngày đó, Thái Lan đã đón nhận 5. 000 người tỵ nạn từ Việt Nam qua, tại Hồng Kông cũng đã có 4. 000 tị nạn, Tân Gia Ba 1, 800 người, và có khoảng 1. 250 người cũng đã đến Phi Luật Tân. Vào tháng 7 năm 1976, khi chế độ Hà Nội loại trừ bộ máy quản chế miền Nam của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam để thực hiện việc thống nhất hai miền, cưỡng chế người dân đi vùng kinh tế mới, và tập trung trên một triệu người miền Nam vào các trại tù cải tạo, những làn sóng di tản bằng đường biển bắt đầu gia tăng. Và đến cuối năm 1977, đã có trên 15. 000 người Việt sang tị nạn tại các nước trong vùng Đông Nam Á. Cho đến năm 1978, khi nhà cầm quyền Cộng Sản phát động chính sách cải tạo tư sản, và tiếp theo đó là việc xua quân xâm chiếm Cam Bốt, và phải đương đầu với cuộc chiến biên giới với Trung Quốc, làn sóng tị nạn bằng đường biển đã tăng lên gấp bốn lần, với đa số người ra đi thuộc khối người Việt gốc Hoa, để sau đó được đưa sang định cư tại các tỉnh phía Nam Trung Quốc.Vào cuối năm 1978, đã có 62. 000 thuyền nhân người Việt tị nạn tại các nước Đông Nam Á. Riêng trong tháng 6 năm 1979, đã có trên 54. 000 thuyền nhân Việt Nam đến tị nạn tại các nước nói trên. Những làn sóng tị nạn này đã khiến cho các nước trong khối Đông Nam Á, như Mã Lai Á, Thái Lan, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba và Nam Dương tuyên bố không nhận thêm người tị nạn từ Việt Nam, khiến cho những đợt thuyền nhân đến sau đã bị xua đuổi cấm không cho lên bờ. Cũng kể từ đó, con số thuyền nhân tử vong trên biển cả cũng đã gia tăng.
Sau những cuộc hành trình hãi hùng lênh đênh trên đại dương, một số thuyền nhân cũng đã đến được bến bờ tạm dụng. Những lớp người này đã đem cho thế giới bên ngoài những mẫu chuyện về người cha, người mẹ, đã phải chia nhau những hạt cơm rơi từ miệng những đứa con; đến chuyện chia nhau từng giọt nước quý hơn vàng được vắt ra từmiếng vải thấm mưa, để đánh lừa những cơn đói khát triền miên. Hay là những chuyện thương tâm về người chết đã cứu được người sống với thịt máu của chính mình. Hoặc nữa là những chuyện nói nhỏ, kể về những trường hợp phải đương đầu với hải tặc. Ngoài những mối đe dọa do sự đầy đọa của con người đối với con người, những thuyền nhân này còn phải đương đầu với những cơn thịnh nộ của thiên nhiên. Những cơn phong ba bão táp đã khiến cho không biết bao nhiêu thuyền nhân làm mồi cho biển cả. Không ai dám phỏng đoán với mỗi người có cơ may đặt chân lên bến bờ tự do, đã có bao nhiêu người hy sinh trên đại dương.
Cuối cùng, làn sóng người tị nạn Việt Nam bằng đường biển đã viết lê thiên bi sử của thuyền nhân, và những câu chuyện hãi hùng của các cuộc vượt biển của người tị nạn Việt Nam đã đánh động được lương tâm thế giới. Vào tháng Ba 1979, chương trình Ra Đi Có Trật Tự ra đời để cố gắng ngăn chặn những làn sóng vượt biển. Ngoài ra, cũng vào thời gian này, các chương trình cứu người vượt biển đã được một số tổ chức thiện nguyện quốc tế phát động hai chiếc tầu cứu vớt thuyền nhân ngoài biển là Anamur do một tổ chức từ thiện Đức Quốc vận động vào năm 1979 L’Ile deLumiere của tổ chức từ thiện Pháp Medecins du Monde điều hành vào năm 1980 đã cứu mạng được nhiều thuyền nhân Việt Nam lênh đênh ngoài biển cả trong khoảng thời gian từ 1979 cho đến 1990.”
…Tất cả sự đau thương thống khổ của người dân hai miền nam bắc chỉ đổi lấy sự hào nhoáng giả tạo, sự chiến thắng viển vông và sự giàu có cho chỉ tầng lớp lãnh đạo đảng, nằm vùng và cơ hội. Còn toàn thể dân hai miền thì đau thương không xiết. Những nỗi đau thương cứ đầy theo năm tháng mãi không thể xóa nhòa bởi từ ngày 30/4 thống hận đó, lịch sử toàn bộ đất nước VN lại bước vào một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên của đau khổ, cùm kẹp và đầy rẫy trái ngang…Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng không thể nào quên những kẻ phản bội miền nam. Đó cũng là nội dung của phần 3 trong loạt bài tản mạn 30/4.
Đặng Chí Hùng
24/04/2022